Bình chữa cháy có thể khống chế cháy nổ trong chế biến gỗ
Sơ đồ quy trình sản xuất gia công chế biến gỗ
Quá trình sản xuất các đồ dùng bằng gỗ
Từ sơ đồ ( hình 2.4) thấy rằng, nguyên liệu gỗ cây được đưa vào phân xưởng xe thành tấm theo kích thước đã định, sau khi xẻ thành tấm được đưa vào sấy để không bị nứt nẻ, cong vênh. Gỗ sau khi sấy được đưa vào phân xưởng gia công chi tiết, gồm có xưởng mộc máy và mộc tay. Từ xưởng mộc máy bán thành phẩm được đưa sang xưởng mộc tay để thực hiện những chi tiết mà phân xưởng mộc máy không làm được. Cuối cùng bán thành phẩm này được chuyển sang phân xưởng lắp ráp và đánh bóng (sơn hoặc đánh vecni) phân xưởng hoàn chỉnh sản phẩm, sau khi được kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm và chuyển vào kho thành phẩm.
Quá trình sản xuất gỗ dán và sản phẩm từ gỗ
Các súc gỗ lớn được đưa vào máy bóc để bóc ra thành những tấm dày từ 2÷3mm. Sau đó được đưa vào máy sấy hơi nước ở nhiệt độ 100°C và áp suất hơi khoảng 8,5 kG/cm2.
Khi ra khỏi lò sấy, những tấm gỗ này sẽ được đưa sang bộ phận tráng keo phenol và ép để tạo thành tấm theo kích thước đã định trước. Thành phẩm cuối cùng là gỗ dán.
Đối với việc sản xuất diêm, bút chì thì sau khi tấm gỗ đã được sấy sẽ được đưa tới phân xưởng cắt xẻ để cắt theo hình dạng và kích thước đã định trước phục vụ việc sản xuất diêm, bút chì.
Dùng bình chữa cháy để ngăn cháy nổ trong các cơ sở gia công chế biến gỗ
Chất cháy
Trong quá trình gia công chế biến gỗ (bao gồm các công đoạn: xẻ, bào, tiện, phay, đánh bóng) tạo ra nhiều bụi và phoi, mùn cưa, bay lơ lửng và tồn tại trong nền nhà xưởng sản xuất, bám vào các chi tiết gia công máy và cấu kiện nhà xưởng. Nếu các vật liệu gỗ càng chắc thì phoi, vỏ bào, bụi càng nhỏ thì càng có nguy hiểm cháy, nổ. Bụi gỗ được tạo ra khi máy làm việc, đặc biệt bụi tạo ra nhiều ở các máy mài, đánh bóng và có khả năng kết hợp với không khí tạo thành hỗn hợp nguy hiểm cháy, nổ. Bụi gỗ ở trạng thái bay lơ lửng trong không khí có nhiều khả năng tạo thành hỗn hợp nguy hiểm cháy, nổ. Bình chữa cháy cần được để chỗ thuận tiện, khi cháy sảy ra người dùng lâý ngay bình chữa cháy để dập tắt lửa trước khi nó bùng lớn.
Ví dụ: bụi gỗ có kích thước từ 75 đến 100.m có giới hạn nồng độ bốc cháy thấp (Cth = 12-25 g/m3).
Trong quá trình gia công chế biến gỗ có sử dụng một số hoá chất, dung môi có nguy hiểm cháy, trong đó:
– Sơn, vecni là loại chất lỏng có nguy hiểm cháy, nổ.
– Cồn công nghiệp (C2H5OH), axeton (CH3COCH3) có nguy hiểm cháy nổ.
– Các loại keo dán trong đó có một số có nguy hiểm cháy, nổ.
Sự tồn tại và phát sinh nguồn nhiệt gây cháy.
Nguồn nhiệt gây ra cháy trong các phân xưởng gia công, chế biến gỗ có thể do các sự cố của thiết bị điện và vi phạm quy định an toàn khi sử dụng điện; Có thể do ngọn lửa trần (trường hợp khi công nhân viên không chấp hành quy định an toàn phòng cháy); Nhiệt do mà sát sinh ra (khi dầu, mỡ bôi trơn kém chất lượng; vận tốc máy làm việc nhanh hơn so với quy định; do máy làm việc quá tải và một vấn đề cần chú ý có thế do lắp lưỡi cưa, bào, xẻ không dùng đúng chủng loại phù hợp với từng loại gỗ…); có thể do tia lửa sinh ra bởi va chạm giữa các mẫu kim loại rơi vào máy và cũng có thể cháy xảy ra do cháy các phoi bào, mùn cưa hỗn hợp với dầu mỡ được sử dụng làm chất bôi trơn khung cưa bị rơi xuống.
Khi tìm hiểu những nguyên nhân gây ra cháy trong quá trình gia công và chế biến gỗ thấy rằng: có nhiều nguyên nhân dẫn đễn cháy, nổ như vi phạm nội quy an toàn phòng cháy, chữa cháy (hút thuốc, đun nấu trong khu vực sản xuất), vi phạm nội quy hàn điện, hàn hơi hoặc sử dụng các dụng cụ nung nóng keo bằng điện bị hở; do vi phạm chế độ nhiệt độ khi sấy gỗ; do không chú ý thường xuyên theo dõi máy móc, thiết bị động cơ làm việc quá tải trong một thời gian dài các ổ trục đỡ máy bị nóng lên dẫn đến cháy; do va chạm giữa các vật rắn với nhau như cưa, dũa, sắt thép lẫn trong gỗ phát sinh tia lửa làm bụi gỗ, mùn cưa bốc cháy. Cần đến bình chữa cháy để phòng chống cháy ngay từ ban đầu
Hệ thống điện, thiết bị tiêu thụ điện ở khu vực lò sấy không đảm bảo an toàn cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cháy gỗ. Ngoài ra do để dầu mỡ của máy xẻ rơi xuống nền nhà trộn lẫn với mùn cưa tạo nên hỗn hợp có khả năng bốc cháy và tự bốc cháy. Những giẻ lau dầu mỡ lau bụi; mùn cưa, phoi bào để mục lâu ngày cũng có thể tự bốc cháy. Một khi cháy lớn, bình chữa cháy không thể dập được đám cháy, mà khả năng cháy nổ và lan truyền là rấ lớn.
Trong quá trình gia công chế biến gỗ trong công ngiệp có sử dụng đến nguồn nhiệt để sấy gỗ. Sấy gỗ là quá trình phức tạp, đặc trưng của quá trình này quá trình thoát độ ẩm từ vật liệu tới môi trường sấy, sự chuyển dịch dòng nhiệt ở bên trong vật liệu sấy, quá trình bốc hơi trên bề mặt vật liệu sấy và môi trường. Mức độ thay đổi độ ẩm của gỗ phụ thuộc vào nhóm, loại, và kích thước của gỗ…Do vậy mỗi phương pháp sấy có mức độ nguy hiểm cháy khác nhau. Hiện nay thường sử dụng 4 phương pháp sấy gỗ dưới đây:
Phương pháp thứ nhất là sử dụng hơi nước nóng hay dùng
khói và khí nóng cho chạy vào ống dẫn bằng kim loại, những ống dẫn này được lắp đặt cố định trong buồng sấy, ống kim loại được truyền nhiệt bởi hơi nước hoặc khí nóng toả nhiệt ra không khí trong buồng sấy, dưới tác dụng của không khí nóng, gỗ sẽ được sấy khô theo yêu cầu kỹ thuật.
Các ống kim loại dẫn hơi, khói hay khí nóng có thể đặt bên dưới, bên trên hay hai bên sườn của buồng sấy. Nhiệt độ trong buồng sấy khoảng 80°C, còn nhiệt độ trong ống kim loại là 180°C, áp suất hơi khoảng 8,2 atm.
Phương pháp sấy thứ hai là dùng khói và khí nóng do đốt nhiên liệu và đồng thời dùng quạt thổi trực tiếp vào thẳng buồng sấy, ngoài ra còn thổi thêm không khí bên ngoài vào để lưu thông trong buồng và hơi ẩm thoát ra ngoài. Thời gian sấy gỗ cả hai phương pháp liên tục kéo dài từ một đến hai tuần.
Phương pháp sấy thứ ba là sử dụng điện có tần suất cao. Phương pháp này rất hiệu quả, công suất lớn, thời gian sấy chỉ trong 4-6 giờ và gỗ khô đều, nhưng rất đắt tiền nên hiện nay ít được sử dụng. Nguồn điện phục vụ để sấy đến 15000 vôn, lúc đó nhiệt độ của buồng sấy khoảng 100°C.
Và phương pháp cuối cùng là sử dụng petrolatum. Petrolatum là một chất lỏng đặc sệt như xà phòng được lấy từ phế liệu của công nghệ lọc dầu, ở nhiệt độ 55 – 60°C petrolatum bắt đầu nóng chảy và ở nhiệt độ 100 – 120°C nó chuyển sang thể lỏng. Giới hạn nhiệt độ bôc cháy trên 250°C. Để sử dụng sấy gỗ chỉ cần cho petrolatum vào thùng rồi đun nóng đến nhiệt độ 140°C có thể bằng hơi nước nóng hoặc bằng lửa trần hoặc điện. Sau đó lần lượt cho các tấm gỗ có độ dày từ 4-6 cm vào thùng và tiếp tục sấy trong thời gian 10 giờ (1m3 khối gỗ cần sấy phải sự dụng 20 kg petrolatum).
Đặc điểm nguy hiểm cháy khi sấy gõ trước hết là do trong buồng sấy tập trung nhiều gỗ khô, không khí đưa vào buồng sấy có lẫn nhiều bụi dễ cháy. Do có nhiều bụi bám trên các thành ống dẫn nhiệt với nhiệt độ sấy khá cao sau một thời gian nhất định bụi sẽ biến thành than và bốc cháy gây ra cháy buồng sấy.
Trong bốn phương pháp sấy gỗ trên đây, thấy rằng nguy hiểm cháy hơn cả là phương pháp đưa trực tiếp khói và khí được đốt nóng bằng nguyên liệu cứng vào buồng sấy. Trong trường hợp này nếu đưa quá nhiều khí nóng vào, nhiệt độ tăng quá mức cho phép làm cho gỗ có thể bốc cháy và dẫn đến cháy buồng sấy.
Trong trường hợp nhiệt độ của khí, khói nóng trong ống dẫn kim loại vượt quá quy định, trên thành đường ống có bám nhiều phế liệu (mùn cưa, phoi bào, bụi,…) hoặc đường ống bị nứt, vỡ khí nóng lọt ra ngoài làm gỗ bốc cháy.
Phương pháp sấy bằng điện cũng có thể nguy hiểm cháy khi xuất hiện tia lửa điện do chập mạch, phóng điện khi điện thế tăng vượt quá mức quy định hoặc có các tấm thép và gỗ kẹp không chặt, tạo ra khoảng trống, tạo nóng cục bộ từng chỗ do ẩm không đều.
Phương pháp sấy bằng chất lỏng petrolatum có nhiều nguy hiểm cháy vì petrolatum có thể bắt cháy khi nó bị tràn ra ngoài hoặc để gỗ sát đáy và thành thùng cũng dẫn đến bốc cháy.
Dùng bình chữa cháy ngăn khả năng lan truyền đám cháy
Các phân xưởng sản xuất chứa đầy vật liệu gỗ, gỗ bán thành phẩm, phoi bào và có bụi, mùn cưa sẽ là điều kiện để đám cháy lan truyền nhanh. Để thu dọn bụi, phoi bào, mùn cưa từ các máy móc sản xuất, sử dụng máy hút phế thải cục bộ và phương tiện vận chuyển bằng khí nén đẩy. Đây chính là những điều kiện, khả năng cho đám cháy lan truyền nhanh từ một số máy móc theo đường ống công nghệ đến hệ thống vận chuyển chính của xưởng sản xuất.
Khi thấy lửa hãy nhanh chóng dùng bình chữa cháy phun ngay vào mồi lửa, tránh để lan truyền gây ra thiệt hại về người và tài sản.